Tôn vinh danh nhân Triệu Quang Phục và khẳng định sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy giá trị di sản
(24/3/2020 21:23 UTC+7)Qua gần 10 tham luận được trình bày trực tiếp tại hội thảo, các đại biểu cung cấp nhiều thông tin khoa học có giá trị góp phần làm rõ cuộc đời và sự nghiệp vẻ vang của danh nhân Triệu Quang Phục. Trên cơ sở những luận cứ, kiến giải khoa học, hội thảo đã đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản có liên quan tới danh nhân Triệu Quang Phục ở Hưng Yên cũng như tại các địa phương khác.
Báo Quân đội nhân dân Điện tử trích đăng một số ý kiến tại hội thảo ý nghĩa này.
* GS, TS, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam:
Thay đổi cục diện chiến tranh và giành lại quyền làm chủ đất nước
Nhận thấy vai trò của mình đã hết và trong hàng ngũ tướng sĩ còn lại sau trận thất bại ở hồ Điển Triệt cũng không mấy ai còn phó thác niềm tin và tính mệnh vào mình nữa, tại động Khuất Lão, Lý Bí đã công khai quyết định giao lại toàn bộ binh quyền của nhà nước Vạn Xuân cho viên tướng trẻ tuổi và tài năng là Triệu Quang Phục. Đây là cuộc “bàn giao thế hệ”, một cuộc “chia tay” đúng lúc, cần thiết và đặc biệt có ý nghĩa. Vì chính nó là cơ sở hình thành tầm nhìn mới với những kế sách vượt ra khỏi những tính toán tù túng, bế tắc trước đây, tạo thành nguồn xung lực mới cho cuộc đối đầu một mất một còn với quân xâm lược phương Bắc của nhà nước Vạn Xuân. Triệu Quang Phục đã thay mặt Lý Nam Đế, thay mặt triều đình Vạn Xuân và bộ chỉ huy kháng chiến lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến cứu nước chuyển sang một giai đoạn lịch sử mới.
Triệu Việt Vương không chỉ giữ vững căn cứ Dạ Trạch, mà còn liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của quân Lương, mở rộng phạm vi kiểm soát ra các vùng xung quanh. Quân Lương càng ngày càng bị co lại cố thủ trong các thành lũy kiên cố. Nhân cơ hội lực lượng nhà Lương suy yếu và bất lực không nắm được Giao Châu, tướng tài, quân giỏi ở Giao Châu cũng bị rút về Trung Quốc, Triệu Việt Vương đã nắm lấy thời cơ có một không hai này, thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên đến cao trào. Chỉ trong vòng 8 năm tính từ đầu năm 542 cho đến đầu năm 550, Lý Bí và Triệu Quang Phục đã hai lần tổ chức đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước. Nhà nước Vạn Xuân trải qua những năm tháng gian nan nhất, có lúc tưởng như đã bị tiêu diệt hoàn toàn, lại được hồi sinh và vươn lên với sức mạnh lạ kỳ, giành lại nền độc lập, tiếp tục xây dựng và phát triển.
* PGS, TS Nguyễn Đức Nhuệ, Phó viện trưởng Viện Sử học:
Triệu Việt Vương, người kế tục Lý Nam Đế trong sự nghiệp chống ngoại xâm
Trong thời gian Lý Nam Đế ở động Khuất Lão, lực lượng kháng chiến của triều đình Vạn Xuân gồm có một bộ phận do Triệu Quang Phục chỉ huy, một bộ phận do Lý Thiên Bảo (anh Lý Nam Đế) chỉ huy, đóng quân ở đất Di, Lạo, tự xưng là Đào Lang vương, lập nước gọi là nước Dã Năng. Trên thực tế, từ năm 546 (khi Lý Nam Đế vào ở trong động Khuất Lão) cho đến khi xung đột với Lý Phật Tử (năm 557), thì Triệu Quang Phục trở thành người đứng đầu lực lượng kháng chiến của triều đình Vạn Xuân chống nhà Lương, nhà Trần (Trần Bá Tiên).
Triệu Quang Phục lui quân về đóng ở đầm Dạ Trạch từ tháng Giêng năm Đinh Mão (547) khi liệu sức không chống nổi đại quân của Trần Bá Tiên. Lực lượng của Triệu Quang Phục ở trong đầm Dạ Trạch có khoảng 2 vạn người, hoạt động tuyệt đối bí mật “ban ngày tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương. Năm 548, Lý Nam Đế qua đời ở động Khuất Lão, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử chiếm cứ đất Dã Năng; Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Năm Canh Ngọ (550), Trần Bá Tiên được vua Lương phong làm Thứ sử Giao Châu. Bá Tiên mưu tính cầm cự với quân của Triệu Việt Vương, đợi quân ta lương hết, quân mỏi mới tổ chức tấn công vào căn cứ. Khi ấy, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, Bá Tiên được triệu về dẹp loạn, nhân đấy cướp ngôi nhà Lương, lập nên nhà Trần. Ở Giao Châu, bộ tướng của Bá Tiên là Dương Sàn được ủy thác việc cầm quân chống nhau với Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương tung quân ra đánh, Dương Sàn bị thua chết, quân Lương tan vỡ, trốn chạy về nước. Trong khoảng thời gian từ năm 550 đến năm 557, đất nước bình yên, Triệu Việt Vương về đóng ở thành Long Biên.
Trước năm 548, anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử yên vị ở động Dã Năng, không hề tổ chức một trận đánh nào với quân Lương. Công cuộc chống ngoại xâm đều do Triệu Quang Phục chủ trương. Sự nghiệp vẻ vang nhất của Triệu Quang Phục - Triệu Việt Vương gắn liền với công cuộc chống ngoại xâm, đặc biệt là từ khi ông được Lý Nam Đế ủy thác trách nhiệm to lớn khi Ngài thụ bệnh ở động Khuất Lão năm 546 đến khoảng 550 (khi xây dựng căn cứ kháng chiến ở đầm Dạ Trạch, tổ chức chống quân Lương, giết chết tướng nhà Lương là Dương Sàn, đuổi quân Lương về nước), bắt tay vào xây dựng nền thái bình, kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế. Cơ đồ tuy ngắn ngủi nhưng lịch sử đã ghi nhận những cống hiến vô cùng to lớn của Triệu Việt Vương - Triệu Quang Phục trong tiến trình phục hưng đất nước, khôi phục lại phẩm giá cao quý của dân tộc Việt Nam trước sự cai trị nô dịch của ngoại bang.
* PGS, TS Nguyễn Công Việt, Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
Thêm thông tin xác định quê hương của Triệu Việt Vương
Vấn đề quê hương của Triệu Việt Vương nhìn chung tài liệu lịch sử đều ghi khá thống nhất là cha con Triệu Túc, Triệu Quang Phục là người Chu Diên, Triệu Túc xuất thân là Tù trưởng ở Chu Diên. Sơ lược về vị trí khu vực và quy mô cấp hành chính huyện Chu Diên vào thế kỷ thứ VI thì nó khá rộng bao gồm một phần đất Hải Dương và toàn bộ vùng đất Hưng Yên sau này. Thu nhỏ lại việc xác định quê hương của Triệu Việt Vương là một việc khó bởi chưa tìm thấy một chứng tích nào ghi cụ thể hơn rõ hơn. Tuy nhiên, có thể căn cứ từ logic lịch sử việc Triệu Việt Vương lui quân về đầm Dạ Trạch…, việc thờ cúng ngài từ trước đến này ở Đền Hóa thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch thì có thể cho ta giả thuyết đoán định về vấn đề này.
Sử cũ ghi rõ ông rất thông thổ đầm Dạ Trạch. Thường là nơi chôn nhau cắt rốn sống từ nhỏ, chơi đùa mò mẫm khắp các xó xỉnh là điều tất yếu của trẻ nhỏ đến khi trưởng thành... Chính sự thông thạo đất đầm Dạ Trạch cùng tài thao lược đã cho Triệu Việt Vương bảo toàn được lực lượng, đồng thời tổ chức tập kích, đánh địch có kết quả, để sau đó mới có trận chiến quy mô hơn giết được Dương Sàn đuổi được quân Lương về Bắc.
Lịch sử Việt Nam với hơn 4.000 năm dựng nước và giữ nước, biết bao cuộc kháng chiến vệ quốc oanh liệt và những cuộc khởi nghĩa kiên cường, giành độc lập tự chủ là những tấm gương sáng chói cho hậu thế noi theo. Tinh thần của Triệu Việt Vương và thân phụ Triệu Túc bên cạnh Lý Nam Đế của quốc gia Vạn Xuân bất diệt trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam.
Việc nghiên cứu địa danh Chu Diên trong lịch sử, xác định vị trí khu vực quy mô cấp hành chính huyện Chu Diên và vấn đề quê hương Triệu Việt Vương là những việc cần tiếp tục khảo sát nghiên cứu tìm tòi. Những tư liệu hiện vật từ khai quật khảo cổ học, những tài liệu thư tịch và hiện vật văn khắc Hán Nôm tản mạn tiềm ẩn trong dân gian liên quan đến triều Lý Nam Đế - Triệu Việt Vương rất cần được khai thác nghiên cứu. Hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ có một gian trưng bày phong phú về hiện vật của chuyên đề này trong ngôi đền lớn tôn thờ người anh hùng của đất Hưng Yên nói riêng và cả dân tộc nói chung.
ThS. Đào Mạnh Huân, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hưng Yên:
Sáng mãi trong tâm thức của nhân dân Hưng Yên
Đối với mảnh đất Hưng Yên, Triệu Việt Vương và căn cứ Dạ Trạch với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Lương là một trong những khúc tráng ca hào hùng trong truyền thống yêu nước, bảo vệ độc lập của nhân dân Hưng Yên.
Triệu Việt Vương đi vào tâm thức của nhân dân không chỉ vì những chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc và nhân cách cao cả mà còn vì cuộc đời và sự nghiệp của ông nhất là thời gian tổ chức kháng chiến tại đầm Dạ Trạch đã có sự gắn bó máu thịt, mật thiết với nhân dân.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có 10 địa phương Triệu Việt Vương được tôn thờ làm Thành hoàng làng. Tại những di tích này, còn lưu giữ được thần tích ghi chép về cuộc đời, sự nghiệp, công lao to lớn của Triệu Việt Vương. Bên cạnh đó, trong rất nhiều thần tích về Đức thánh Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân tại các di tích ở Hưng Yên có ghi về thân thế, sự nghiệp vẻ vang của Triệu Việt Vương. Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên còn lưu giữ 29 đạo sắc phong từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn của các nhà nước phong kiến ban cho Triệu Việt Vương cùng một số sắc phong ban cho vợ và em của Triệu Việt Vương.
Hằng năm, tại các di tích thờ Triệu Việt Vương, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội trước là tưởng nhớ tri ân và tôn vinh công ơn của vị vua đầm Dạ Trạch đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, sau là cảm tạ ân đức của thần đã giúp cho mưa thuận gió hòa, sản xuất được mùa, đời sống nhân dân no ấm, tránh mọi thiên tai với niềm tin thần sẽ tiếp tục che chở, bảo vệ nhân dân. Cùng với đó, Triệu Việt Vương còn là hiện thân của một vị thần đã che chở, bảo vệ nhân dân qua những thác ghềnh bão táp, những biến cố to lớn của lịch sử dân tộc. Đó là hình tượng của sự kết hợp từ một nhân vật lịch sử có thật với một vị thần linh ứng. Sự kết hợp giữa yếu tố thực - lịch sử với yếu tố hư - thần thánh hóa trong đó yếu tố thực - lịch sử là hồn cốt, được dân gian tôn kính, linh thiêng hóa, tạo dựng nên một Triệu Việt Vương cao cả và đẹp đẽ. Và chính những tâm thức đẹp đẽ và cao cả như thế đã góp phần tạo nên những truyền thống quý báu mà trên hết là truyền thống yêu nước, sống nhân nghĩa, thủy chung của nhân dân Hưng Yên sau này.
* Trung tướng Lương Đình Hồng, Chính ủy Học viện Quốc phòng:
Giữ đất hiểm, vận dụng cách đánh du kích, tiêu hao địch, từng bước xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến
Chủ trương của Triệu Quang Phục về việc chuyển từ cố thủ trong thành trì ở đồng bằng hoặc trung du, sang bám trụ ở vùng đầm lầy là nét mới nhất trong tư duy quân sự của toàn bộ quá trình kháng chiến chống ách đô hộ nhà Lương.
Thực tế lịch sử cho thấy, ở vùng đồng bằng Chu Diên tuy không có thế đất hiểm như ở miền đồi núi, nhưng ở đây có nhiều sông rạch chia cắt, nhiều đầm hồ lầy lội; cây cối, lau sậy um tùm, có lợi cho việc giấu quân, không có lợi cho việc hành binh của những đạo quân lớn. Địa thế như vậy buộc quân Lương phải phân tán, chia quân đánh nhỏ, làm mất sở trường đánh tập trung của chúng; ngược lại tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến của Triệu Quang Phục đánh du kích, tiêu diệt gọn từng bộ phận nhỏ, tiêu hao địch về chiến lược. Mặt khác, Chu Diên là nơi đông dân, trù phú, đất bản bộ của họ Triệu, do đó Triệu Quang Phục có nhiều thuận lợi khi huy động nhân vật lực và tổ chức đánh địch.
Đặc biệt, Dạ Trạch ở huyện Chu Diên (tức bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Yên) là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm; ở giữa là một bãi phù sa rộng, có thể làm nơi sinh sống được. Đường đi vào rất kín đáo và khó khăn, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống bằng sào lướt đi trên cỏ mới có thể đến được; nếu không quen biết đường lối thì không biết đường vào, sa xuống nước thì bị rắn cắn chết... Theo sử cũ, Triệu Quang Phục đóng quân ở trên bãi đất nổi ấy, ngày ngày quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập và sản xuất, tự túc lương ăn; ban ngày im hơi lặng tiếng như không có người, ban đêm nghĩa quân dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh úp trại giặc; giết và bắt được rất nhiều, lấy được lương thực, khí giới của địch để làm kế lâu dài...
Với kế sách “trì cửu chiến”, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, đánh tiêu hao là chính, qua gần 4 năm giữ đất hiểm (dựa vào đầm Dạ Trạch) đánh du kích (dùng kỳ binh) để đánh giặc Lương, lực lượng kháng chiến của Triệu Quang Phục ngày một mạnh, quân Lương ngày một suy yếu, mỏi mệt; chiến lược “tốc quyết” (đánh nhanh thắng nhanh) của quân Lương bị đập tan. Còn quân của Triệu Quang Phục, với truyền thống giỏi bơi thuyền, đánh thủy, lại thông thuộc đường đi, nên chỉ bằng những lực lượng nhỏ được phân ra đánh chặn các ngả cũng có thể bẻ gãy các mũi tiến công của giặc, hoặc gặp khi tình thế bất lợi có thể nhanh chóng rút lui an toàn vào sâu căn cứ, khiến quân giặc không sao truy tìm được…
Có thể nói, lập căn cứ kháng chiến ở đồng bằng, nhất là chủ trương dựa vào thế hiểm của đầm Dạ Trạch để tiến hành một cuộc chiến tranh du kích đánh lâu dài, dùng hình thức đánh nhỏ, đánh lén, đánh úp ban đêm, tiêu hao địch khiến cho quân Lương lâm vào tình trạng căng thẳng, mỏi mệt là một kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng suốt của Triệu Quang Phục. Với kế sách đó, lực lượng kháng chiến của nước Vạn Xuân đã nhanh chóng chuyển từ cách đánh thụ động chờ đón đánh địch sang chủ động tổ chức tiến công quân xâm lược bằng nhiều trận có quy m&ocir
Theo Báo Quân đội Nhân dân